Giải viết văn đường trường 2012 – Bản tin 01

GIẢI VIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2013 – BẢN TIN 01

Ban tổ chức Giải Viết Văn Đường Trường xin kính chúc quý Ban Biên Tập Truyền Thông Công Giáo, quý tác giả và  độc giả bốn phương một Mùa Giáng Sinh vui tươi thánh thiện và một Năm Mới an bình hạnh phúc.

Giải Viết Văn Đường Trường tổ chức trao giải 6 năm liền (2013-2018) cho những truyện ngắn có nội dung Kitô giáo và ấn hành giới thiệu các tuyển tập truyện ngắn cho các tác giả đạt giải.

Xin xem

Bản Thể Lệ Giải Viết Văn Đường Trường

Chương trình tìm kiếm và xây dựng tài năng văn xuôi cho văn học công giáo

tại http://gpquinhon.org/qn/news/viet-van/

Ước mong quý vị và các bạn giúp giới thiệu chương trình này thật rộng rãi để tìm kiếm và xây dựng cho Giáo hội Việt Nam nhiều tài năng văn chương mới.

Chúng tôi hân hạnh giới thiệu 2 truyện ngắn đầu tiên vừa gửi về tham gia giải thưởng 2013.

Thay lời Ban Tổ chức

Linh mục TRĂNG THẬP TỰ

————————————————

BÀI DỰ THI 

Mã số 13-001

Vết khắc thứ sáu

Minh nghiêm ngắn trước linh cữu người qua cố. Khói nhang bảng lảng. Anh lặng lẽ tiến về phía người phụ nữ có tấm khăn trùm đầu trắng muốt đang quỳ bệt dưới sàn nhà. Nước mắt đã ngưng chảy trên khuôn mặt khắc khổ, có lẽ nó đã lắng cạn sau những ngày dài tưới đẫm cho niềm hi vọng nhỏ nhoi. Thấy Minh đến, bà đứng lên, giọng trầm tĩnh:

– Cha ơi, chồng con… Bốn năm qua con đã không ngừng cầu nguyện. Phải làm sao đây cha, anh ấy bỏ con thật rồi.

– Cứ mặc kệ Chúa đi. Đừng thất vọng! – Minh siết chặt bàn tay người phụ nữ. Dường như không biết nói gì thêm trước đôi mắt ánh lên màu hoang dại của bà và cũng bởi thứ không khí ngột ngạt của phòng tang lễ, Minh nhũn nhặn cúi chào rồi bước ra ngoài, nơi một số người đang chờ đến lượt viếng.

Năm giờ chiều. Nắng bắt đầu nhạt dần trên hàng tigôn trước quán coffee Nhật Nguyệt. Quán vắng. Chiếc Lexus 350 màu trắng đỗ xịch, người đàn ông mặc vest xám với cặp kính đen to bản đi thẳng vào trong. Đã thành lệ, cứ kết thúc ngày làm việc, trước lúc về lại ngôi biệt thự ba tầng màu tím cách đó hai dãy phố, thế nào gã cũng ghé vào đây thưởng thức ly Cappuccino. Gã thích cái góc quán tĩnh lặng này. Vô thức. Như thể nó đã là một phần hồn vía, là duyên cớ gì đó, tuyệt nhiên không giải thích được. Thắp một điếu thuốc, gã ngả người trên chiếc ghế bành khổ lớn, nheo mắt nhìn dòng người qua lại…

Giai điệu Abide with me dìu dặt từ ban công tầng hai nhà ai đó. Minh khựng lại, dỏng tai lên khoan khoái rồi nhích từng bước chậm rãi về bãi đỗ xe. Chiếc Vespa cũ mờ nhạt về kiểu dáng nhưng lại nổi bật giữa đám xe đời mới bởi tiếng nổ phành phạch của nó. Gần hai năm trước, lúc Minh nhận bằng sai về quản nhiệm giáo xứ Kim Long, chiếc xe là thứ quà tặng giá trị nhất của cả dòng họ với lý do rất mực chính đáng là về sống với dân thành phố cũng phải gắng tỏ ra tươm tất một tí. Nói là tươm tất cho yên cho sang đó thôi chứ thực ra nó cũng chỉ là chiếc xe cũ mà ông cậu Minh đã phải năn nỉ ỉ ôi người bạn ngoài Hà Nội nhượng lại với mức giá phải chăng.

Có tiếng nổ lớn. Ngôi biệt thự màu tím bốc cháy dữ dội. Tiếng người gào thét. Tiếng bước chạy về phía cầu thang. Rồi tiếng khóc. Giật mình tỉnh giấc bởi thứ âm thanh hỗn tạp, gã hốt hoảng lao nhanh ra khỏi giường. Cửa bị khoá. Chết tiệt! – Gã vừa tru tréo vừa giật mạnh cửa. Lửa táp mạnh vào trong. Mùi khét lẹt. Đám cháy càng lúc càng hung hãn. Ai đó thét lên hoảng loạn: Cứu! Cứu! Cứu với!… Gã rùng mình nhớ lại cơn ác mộng đêm qua, mồ hôi rịn ướt lưng áo. Nhiều năm qua chưa bao giờ gã có một giấc ngủ trọn vẹn. Tất cả cứ chập chờn. Dường như chất chứa trong khối thịt nặng bảy mươi bảy ký kia là hai con người, hai bộ mặt hoàn toàn khác nhau. Ban ngày gã là một doanh nhân thành đạt với phong thái đĩnh đạc trong mắt đối tác và bạn bè. Nhưng đêm xuống, gã lại trở về với vẻ yếu đuối, sợ sệt vốn có. Hai con người ấy lao vào nhau. Giấc ngủ như một cuộc chiến, và tất cả chỉ tạm thời kết thúc khi gã thức dậy với cặp mắt thâm quầng.

Thành phố lên đèn. Chiếc xe êm lái men theo con đường nhỏ dẫn về nhà thờ xứ. Minh mỉm cười vụt bắt một ý tưởng cho bài giảng mới. Tối nay là thánh lễ khai mạc mùa Chay, người tham dự đông nghịt. Minh đảo mắt một lượt như thói quen cố hữu, lịch lãm vẫy chào những khuôn mặt quen thuộc cũng như lạ lẫm rồi bước nhanh vào phòng mặc áo. Nhạc thánh cất lên da diết, anh uy nghiêm tiến ra bàn thờ trong bộ phẩm phục màu tím. Cả ngàn người chăm chú lắng nghe như nuốt từng lời của vị linh mục trẻ. Là một bài giảng tuyệt hay về lòng tha thứ. Rất nhiều giọt nước mắt đã buông lơi. “Không có bất cứ khoảng cách nào giữa tình yêu và sự tha thứ!” – Minh kết thúc bài giảng đầy xúc cảm trong tràng pháo tay không dứt của người tham dự.

Chín giờ tối. Phòng mặc áo nhà thờ Kim Long buông màn tĩnh mịch. Minh gục đầu hồi lâu trên cuốn Kinh Thánh như cách anh vẫn thường làm sau mỗi thánh lễ. Đó là phương thức xét mình cuối ngày anh học được từ một vị linh mục già. Có tiếng gõ cửa đứt quãng. Là một người đàn ông tầm thước, trạc ngoài sáu mươi, béo nhũn, khoác trên mình bộ cánh thời thượng.

– Thưa cha, tôi là một con chiên ghẻ!

– Thế ư? Nhưng còn phải xem ghẻ đến mức độ nào – Minh hóm hỉnh.

– Ghẻ đến vô phương cứu chữa, cha à!

Minh mơ hồ nhận thấy tính chất  bất thường trong câu nói của người đàn ông. Trực cảm mách bảo anh sắp phải đối diện với một vấn đề hệ trọng. Người đàn ông cho biết mình không thuộc xứ đạo do Minh quản nhiệm, dù đã định cư và làm ăn buôn bán tại thành phố này ngót gần hai mươi năm. Nhưng, là hai mươi năm chưa một lần bước tới giáo đường. Hai mươi năm vắng bóng Thiên Chúa. Hai mươi năm sống trong nỗi ám ảnh triền miên. Không rõ cơn cớ từ đâu làm ông nảy ra cái ý định muốn tới nhà thờ dự lễ, muốn chấm dứt khoảng thời gian ác mộng đã khiến ông vật vờ giữa hai đối cực nửa như người chạy trốn, nửa như kẻ bị cuộc đời quên lãng. Ông muốn xưng tội với Minh, thứ tội mà ông tin rằng nó có thể vượt xa bất cứ lỗi lầm nào về mức độ man rợ, và cho đến mãi mãi, nỗi ám ảnh là sự trừng phạt ghê gớm nhất.

– Là một vụ… giết người cướp của, thưa cha !

Phải khó khăn lắm người đàn ông mới cất thành tiếng sau một hồi gục đầu khá lâu bên toà giải tội. Minh nén tiếng thở dài, tay vân vê chuỗi hạt cố làm dịu lại cơn dao động bất chợt. Người kia tiếp tục, giọng nói không còn đứt quãng. Đó là một vụ giết người xảy ra hai mươi năm về trước tại một thị trấn ven biển. Nạn nhân là một thiếu phụ và đứa con gái chừng năm tuổi. Cảnh sát đã không đủ chứng cứ quan trọng để phá án. Hai mươi năm qua, vụ án khép lại, đi vào quên lãng như một thứ trầm tích đau thương.

– Vẫn chưa hết – Người đàn ông nói tiếp – Điều làm tôi ám ảnh cho đến tận hôm nay là đôi mắt, chính là ánh mắt của người đàn bà trong giây phút cận kề cái chết. Đôi môi mấp máy không thành tiếng, nhưng ánh mắt ấy nhìn tôi đăm đăm như thể van lơn một ân huệ sau cùng là hãy tha chết cho đứa con gái bé bỏng đang khóc thét lên vì hoảng sợ.

– Và cha biết không, vì sự an toàn hèn hạ của bản thân… tôi đã vung dao kết thúc tất cả.

Người đàn ông ngồi thụp xuống, bật khóc nức nở. Một thứ không khí đậm đặc. Minh gần như bất động trong giây lát, mồ hôi trên đầu túa ra, thấm giọt xuống chiếc áo chùng thâm đang mặc. Người nóng ran, tai ù đi, nhịp tim loạn dần, đồng tử vội vã co lại, hai huyệt thái dương đau nhói, chân tay lẩy bẩy… Dự cảm của Minh từ lúc gặp con người này là chính xác, nó thực sự là một cú sốc đối với anh, một câu chuyện vượt quá ngưỡng những gì có thể chấp nhận được. Gần hai năm làm linh mục, giải tội cho nhiều hạng người nhưng chưa bao giờ anh phải đối mặt với một tình huống khủng khiếp đến như thế. Rõ ràng là một tội ác không thể tha thứ. Một cơn bão bắt đầu hình thành trong anh, dữ dằn đến độ có thể cuốn phăng đi tất cả. Nhưng Minh biết giờ không phải lúc để cơn bão kia lên tiếng. Anh biết cách chế ngự để không thốt ra thêm bất cứ từ gì ngoài câu nói lạnh lùng với người đàn ông đang ôm mặt run lên bần bật :

– Xin lỗi… tôi hơi mệt, ông có thể trở lại đây vào chiều mai được không ?

Minh khép cửa phòng lại. Lảo đảo. Dư chấn của câu chuyện lúc nãy mạnh hơn anh nghĩ. Minh tu cạn ly nước, lần ngồi vào bàn theo thói quen viết lách từ hồi còn là một sinh viên Văn khoa. Sâu thẳm trong anh, một cuộc chiến đã bắt đầu. Tội ác phải bị trừng phạt. Tất cả đều có giá của nó, giá máu lại cần được trả một cách sòng phẳng nhất. Suy cho cùng thì lẽ sống dấn thân của những linh mục như anh là gì nếu không phải là đấu tranh cho sự thật, là bảo vệ và lập lại công bằng cho những con người khốn cùng, bất hạnh. Nhưng còn giáo luật, anh biết rõ nếu để lỗi ấn tín bí tích Hoà giải sẽ bị khung hình phạt rất nặng là vạ tuyệt thông. Minh đứng lên với tay nhấc chai Vodka ra khỏi kệ, mở nút, dốc vào miệng. Anh gằn giọng: Giáo luật ư? Giáo luật cũng phải đứng về lẽ phải, giáo luật không thể dung túng cho cái ác, phải đứng về phía những con người vô tội.

Cái chết thê thảm của hai con người đáng thương kia chẳng phải là vết nhơ cần được gột rửa sao. Khi nền công lý của xã hội này bất lực thì lương tâm có trách nhiệm phải lên tiếng. Đó là mệnh lệnh! – Minh tự trấn an mình trong cơn bấn loạn. Một kế hoạch được sắp sẵn. Ngày mai khi ông ta đến, Minh sẽ gọi điện báo cho chính quyền thành phố, còn anh thì sẽ giả vờ như không hay biết chuyện gì xảy ra. Minh khoái trá nghĩ tới vẻ mặt cáu tiết, hốt hoảng của kẻ thủ ác khi bị bắt. Cơn bão trong anh nổi sóng dữ dội. Minh nằm vật xuống nhà, cười rũ rượi, mắt ầng ậng nước…

Gã ngước mắt lên thở dài nhìn theo bước chân người linh mục chậm rãi xa dần. Một thứ âm khô khốc. Có sao đâu, đến gã còn phải ghê tởm chính mình. Thực ra chưa bao giờ gã nghĩ sẽ trở thành một hoang thú. Chồng của người thiếu phụ được gã thuê vận chuyển hàng buôn lậu thuốc lá về Việt Nam. Năm đó, dịp gần tết nguyên đán, hàng về đến cửa khẩu thì bị hải quan bắt giữ. Người kia trong lúc trốn chạy đã chết trong một vụ tai nạn giao thông. Mất số hàng lớn, gã gần như mất trắng, nợ nần chồng chất. Rồi gã tìm đến ngôi nhà kia. Cơn cùng quẫn buộc tay gã phải nhuốm máu.

Minh thiếp đi giữa cuộc giao tranh khốc liệt, nhưng chừng vài tiếng sau anh choàng tỉnh giấc. Một mình với bóng đêm, tột cùng hoang lạnh… Bất giác anh mở chiếc valy vẫn thường đặt ở gầm bàn, lấy ra vật gì đó giữa đống đồ cũ nát. Là một tượng thánh giá gỗ. ‘‘Mỗi khi nỗi đau buồn vượt quá sức chịu đựng, hãy khắc vào đó một vết dao’’ – Minh bồi hồi nhớ lại lời nhắn của mẹ trong ngày anh rước lễ lần đầu. Trầm mình vào ký ức, những ngón tay anh dừng lại hồi lâu trên các vết khắc loang lổ. Đã là năm dấu khắc. Vết khắc thứ năm còn khá mới, dịp còn ở chủng viện, sau một lần anh cảm thấy bất lực trong cuộc tranh luận với giáo sư để bảo vệ cho một quan điểm giáo dục tiến bộ. Vết khắc thứ tư đến bởi một hiểu nhầm tai hại với người bạn thân thời đại học. Vết khắc thứ ba day dứt anh sau một sai lầm suýt dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Vết khắc thứ hai nhọn hoắt, là nỗi đau của mối tình đầu, nỗi đau của người bị phản bội. Chỉ riêng vết khắc thứ nhất là anh lờ đi, tuyệt nhiên không muốn nhớ tới…

Sau một thoáng do dự, Minh cầm con dao lên, sáng loáng, chậm rãi vết khắc thứ sáu. Ngay cạnh tim, và là một vết khắc sâu hoắm. Nhẹ bẫng. Tượng gỗ giờ đây bé nhỏ trong tay Minh, nham nhở như một phế tích. Anh vừa khắc vào đó vết dao của lòng căm phẫn. Anh vừa kết liễu một tình yêu. Lòng Minh quặn thắt. Chúa hấp hối đến từng khoảnh khắc. Triền miên. Không có khoảng cách giữa tình yêu và sự tha thứ. Minh vứt dao, bó gối ngồi bất động. Những giọt nước ứa ra. Mặn đắng. Mộc mạc mà thẳm sâu, không lời nhưng bất tận, bi tráng và hùng ca, Minh biết anh sẽ chẳng bao giờ giải mã được thứ ngôn ngữ thần diệu của thập giá…

Những tia nắng chiếu xuyên qua ô cửa nhỏ. Ban mai của ngày mới đánh thức thành phố bằng thứ cảm giác ấm áp. Gã dậy từ sớm nhưng vẫn khoan khoái cuộn mình trong tấm chăn mỏng. Lâu lắm rồi gã mới có giấc ngủ sâu và dễ chịu đến vậy. Thốt nhiên gã nhận ra đêm qua mình không còn gặp những giấc mơ hãi hùng. Chiều nay gã sẽ đến gặp linh mục để thanh tẩy quá khứ rồi sau đó chấm dứt luôn những vụ làm ăn phi pháp. Gã bắt đầu nghĩ tới việc sẽ ra đầu thú, không phải vì sự cứu xét của pháp luật nhưng bởi sự tra vấn của lương tâm. Gã thèm khát được sống những giây phút của một con người tự do. Muốn về quê quá! – Gã thốt lên, ít ra vì ở đó, gã vẫn nợ một lời xin lỗi.

Ngày mai, Minh sẽ về thăm quê, sẽ đến quỳ trước mộ của mẹ và em gái, cắm lên đó những bông hoa màu trắng. Minh sẽ khóc và nói với họ thật nhiều, rằng anh đã tìm thấy hung thủ của vụ án năm xưa, đã đau đớn và uất hận đến tột cùng, đã định đi tìm sự trả giá. Và rằng anh đã buông tay. Chính tượng gỗ thánh giá của mẹ đã hoá giải mối thù hận và nỗi đau vẫn đeo đẵng anh suốt ngần ấy thời gian. Còn giờ đây, chiều đang xuống chậm, Minh ngồi bên bậc thềm đợi người đàn ông đến…

Mã số: 13-002

NGÀY TẬN THẾ

Người ta vừa mừng lễ kỷ niệm 100 năm thành lập giáo xứ xong thì tự nhiên nó xuất hiện. Không ai biết nó là ai, từ đâu đến, đến để làm gì… nhưng sự hiện diện của nó như là một cái gai trong mắt mọi người. Người ta đồn rằng, nó là con của bà Năm Rồ. Vài chục năm trước, bà Năm Rồ đã mang cái bầu không biết ai là tác giả rồi bỏ đi biệt xứ vì không chịu nổi lời dị nghị của giáo xứ có truyền thống đạo đức và bề dày đức tin. Hôm nay, nó xuất hiện. Người ta chỉ đồn vậy chứ không biết chính xác lắm!!!

Nó tới ở nơi cái hang nhỏ gần bìa rừng cuối xóm, nơi mà trước kia bà Năm Rồ cũng thường quanh quẩn. Người ta cho rằng nó tìm về nguồn cội. Mà cũng đúng thôi, cái xứ nghèo này có thêm một con muỗi cũng khó sống nữa, huống chi là nó. Nó đến thật bất ngờ, và hành động của nó càng bất ngờ hơn. Ngày đầu tiên nó ra chợ mua thật nhiều đèn cầy. Ngày thứ hai nó cũng mua đèn cầy. Ngày thứ ba nó cũng mua đèn cầy với một số lượng rất lớn, rồi sau đó không thấy nó xuất hiện nơi công cộng nữa mà chỉ thấy nó quanh quẩn nơi cái xó xỉnh cuối xóm. Mấy đứa nhóc chăn bò cũng chỉ mon men tới gần cửa hang chứ không dám vào, có lẽ phần vì sợ nó, nhưng cũng có lẽ phần vì nể nó.

Sự giằng co giữa cái sợ và cái nể bao giờ cũng hấp dẫn. Và thế là, tụi nhỏ ngày càng lui tới nhiều hơn. Người ta bắt đầu tò mò về hành động của nó qua những lời kể hư hư thật thật của mấy đứa nhóc:

– Ổng nói là sắp tận thế rồi nên trốn trong hang ăn năn sám hối, một đứa nói.

– Ổng đâu có nói đâu, mày nghĩ ra thì có, thằng khác cãi lại.

– Nếu không tận thế thì ổng trốn trong đó làm gì, tụi mình còn thấy ổng quỳ gối cầu nguyện nữa mà, một đứa khác thêm vào.

Và thế là nó trở thành trung tâm bàn tán của xóm này, kèm theo chuyện ngày tận thế đến nơi. Thêm vào đó, một vài thanh niên trong xóm cũng làm cho người ta lo lắng bằng việc photo và chuyền tay các bài viết trên mạng. Trang www… thì cho rằng lịch của người Maya chấm hết vào ngày đẹp trời 12.12.12. Còn trang www… thì cho rằng sẽ có một chấn động lớn và thế giới sẽ chìm vào tối tăm 3 ngày 3 đêm, chỉ có ánh sáng của nến được làm phép mới xua tan bóng đêm sự dữ. Nhưng thu hút nhất có lẽ là trang www… đưa tin và giải thích về bí mật thứ ba tại Fatima, cho rằng thế giới sẽ kết thúc vào ngày 21.12.12, có nơi lại cho là ngày 24.12.12 kèm theo lời chỉ dẫn “mua đèn cầy”.

– Thấy chưa, tự nhiên nó trở chứng là có gì đó rồi, tao biết mà, một bà trong xóm nói, cũng giống như mấy con chó tự nhiên ăn cỏ là trời sắp hạn đấy thôi.

– Sao bà lại so nó với chó? Bà không nhớ trong sách Sáng Thế Ký sao, từ ngày ông Noe đóng tàu thì mọi người đều nói ổng trở chứng mà. Sao bà không so sánh ông Noe với chó mà lại nói nó, một bà khác nói.

– Ừ, bà nói tui mới nhớ, thì bà ấy nói vậy thôi, chứ có so sánh nó với chó đâu, một bà khác nữa thêm vào. Biết đâu nó là dấu chỉ gì thì sao nhỉ? Tốt nhất là nên chuẩn bị thì hơn.

Thế là từ đó, tin đồn trong xứ ngày tận thế đã gần kề, phải chuẩn bị mọi thứ, từ cái bên trong là ăn chay thống hối, tới cái bên ngoài là mua đèn cầy, xin nước phép….Không ai bảo ai, nhưng ai cũng làm điều đó như một sự mách bảo tất yếu mang tính dây chuyền của kiếp người. Có nhiều người không hiểu gì nhưng thấy người khác làm cũng làm theo. Lại có những người khác, bên ngoài trề môi khinh chê hành động dở hơi, nhưng trong lòng vẫn áy náy lo sợ: lỡ xảy ra thiệt thì sao? Rồi cũng làm theo. Cuối cùng, cả xóm đều tập trung về một mục tiêu là: mua đèn cầy chờ ngày tận thế!!!

Riêng nó, nó vẫn lặng lẽ với khuôn mặt ngây dại, vẫn lần mò với cái xó xỉnh bằng những hành động thật thật hư hư. Hành động của nó nhiều khi cũng giống như ánh đèn cầy, có khi tỏ, có khi mờ, có lúc lung linh như chuyện thần tiên. Thế đó, không ai biết nó đang làm gì. Mọi người giờ đây chỉ tập trung vào nó, không một ai nhớ gì tới thánh lễ mừng 100 năm vừa qua, với những bài tán dương đức tin của tiền nhân, với những bài học rút ra từ quá khứ và định hướng cho tương lai…Nó đưa mọi người vào một thế giới huyền mơ tự lúc nào không biết.

Và rồi, cái gì đến cũng đến. Suốt cả ngày 24, không ai thấy nó đâu cả. Khi mặt trời khuất núi và đèn chưa kịp lên thì người ta đã thấy một luồng ánh sáng tỏa ra từ xó hang. Không hẹn mà gặp, ai cũng tập trung tới để xem giây phút định mệnh của cuộc đời hay để xem hành động kỳ quặc của nó! Không biết nữa!!!

Hóa ra, chẳng có gì cả. Thời gian vẫn cứ dần trôi. Người ta tiến lại gần hơn. Ánh đèn cầy lung linh dẫn tới một hang đá bé nhỏ, phía sau tượng Chúa Hài Đồng là hàng chữ: Merry Christmas and happy birthday to everybody!!! Mọi người mới giật mình, hôm nay là lễ Chúa Giáng Sinh và là sinh nhật của nhân loại!!!

Related posts